Nghiên cứu khoa học
TÌM HIỂU PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH NGƯ DÂN XÃ NGHI SƠN, HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA

Với mục tiêu tập trung làm rõ phân công lao động theo giới trong các hộ gia đình ngư dân huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa hiện nay, nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng từ dữ liệu điều tra của đề tài: “Phân công lao động trong các hộ gia đình ngư dân ven biển Thanh Hóa - Nghiên cứu trường hợp tại xã Nghi Sơn huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa” năm 2016. Qua đó, bước đầu tìm hiểu hoạt động sản xuất triển kinh tế hộ gia đình và các hoạt động nhằm duy trì mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình với cộng đồng và xã hội tại địa bàn nghiên cứu. - TTSTTKH trường mình số 15 tháng 1 năm 2017

 

  1. Dẫn nhập

Nghi Sơn là một xã đảo thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, có 2.354 hộ với 6.964 nhân khẩu chiếm 3,2% dân số toàn huyện. Người dân xã đảo Nghi Sơn bao đời đã có nghề truyền thống khai thác, đánh bắt và nuôi trồng hải sản. Đây cũng là nơi duy nhất của Thanh Hóa phát triển nghề nuôi cá đặc sản bằng bè trên biển. Hiện toàn xã còn 1002 hộ trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất liên quan đến nghề ngư. Tuy nhiên hiện nay, xung quanh đảo Nghi Sơn là một tổ hợp công nghiệp sầm uất với nhiều dự án như: nhà máy xi măng, nhiệt điện Nghi Sơn, cảng nước sâu Nghi Sơn... và các khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng cao cấp. Chính điều này đã tạo nên cho xã đảo Nghi Sơn có những bước chuyển mình trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Đặc biêt sự chuyển biến trong phân công lao động ở các hộ gia đình ngư dân đã làm thay đổi mối quan hệ xã hội trong đó có mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là quan hệ giới.

Ngư dân: Theo Từ điển Tiếng Việt, “ngư dân là người đánh bắt cá”. Còn “hộ ngư dân là hộ chuyên sống bằng nghề đánh bắt cá” (Viện Ngôn ngữ học, 2013). Hiện nay khái niệm ngư dân được mở rộng do sự chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, hộ ngư dân được hiểu là hộ của những người thực tế hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến hải sản và những người tham gia dịch vụ, mua bán liên quan trực tiếp đến khai thác, đánh bắt hải sản.

          Vai trò giới: là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam và nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về phụ nữ (trẻ em trai hoặc trẻ em gái) trong một xã hội hoặc nền văn hoá cụ thể nào đó. Và phụ nữ và nam giới đều tham gia thực hiện cả 3 vai trò sau:

- Vai trò sản xuất: Vai trò sản xuất bao gồm những công việc do cả nam và phụ nữ làm để lấy công hoặc bằng tiền, hoặc bằng hiện vật. Nó bao gồm cả sản xuất hàng hoá có giá trị trao đổi, và sản xuất vừa có ý nghĩa tiêu dùng tại gia vừa có giá trị sử dụng, nhưng cũng có giá trị trao đổi tiềm tàng.

- Vai trò tái sản xuất sức lao động: bao gồm các hoạt động nhằm duy trì nòi giống, tái tạo sức lao động. Vai trò này không chỉ đơn thuần là tái sản xuất sinh học, mà còn cả việc chăm lo, duy trì, phát triển lực lượng lao động cho hiện tại và tương lai như: nuôi dạy con cái, nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình, làm công việc nội trợ….

- Vai trò cộng đồng: thể hiện ở những hoạt động tham gia thực hiện ở mức cộng đồng nhằm duy trì và phát triển các nguồn lực cộng đồng, thực hiện các nhu cầu, mục tiêu chung của cộng đồng (Lê Thị Quý, 2010)

Phân công lao động: Theo quan niệm xã hội học do A.Comte khởi xướng, phân công lao động là sự chuyên môn hóa nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát triển xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội. Phân công lao động theo giới là yếu tố hình thành vai trò giới trong gia đình và xã hội. Điều đáng chú ý là sự phân công lao động theo giới không đơn thuần dựa vào sự khác biệt về các đặc điểm sinh học giữa nam và nữ mà luôn gắn liền với thói quen suy nghĩ và quan điểm về vị trí, vai trò của nam và nữ trong xã hội (Nguyễn Thế Tràm, 2005).

  1. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng một số phương pháp như: Phỏng vấn, quan sát, phân tích tài liệu trong đó phương pháp chủ đạo là phỏng vấn cấu trúc (điều tra bảng hỏi). Nghiên cứu tiến hành điều tra 250 hộ trong số 1002 hộ trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất liên quan đến nghề ngư. Nội dung chủ yếu tập trung vào vấn đề phân công lao động trong các hộ gia đình ngư dân. Toàn bộ thông tin thu được từ bảng hỏi sẽ được tổng hợp, làm sạch, mã hoá, xử lý qua phần mềm SPSS theo các thống kê cơ bản có tính đến ý nghĩa thống kê. Kết quả của các phân tích sau đó được giải thích theo những vấn đề cụ thể của nghiên cứu.

  1. Nội dung và kết quả nghiên cứu

4.1. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất phát triển kinh tế gia đình

Trước kia, do đặc trưng cơ bản nghề nghiệp của ngư dân ven biển thường sử dụng nguồn nhân lực là nam giới, chịu trách nhiệm thực hiện trực tiếp các công việc như: khai thác, đánh bắt thủy hải sản… Tính chất của loại hình công việc của này thường phải đi dài ngày, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cần sử dụng nhiều công sức lao động… nên rất ít số phụ nữ ở địa bàn nghiên cứu tham gia vào hoạt động nghề biển ở thời gian trước đây.

          Bảng 1: Thu nhập của các thành viên trong gia đình

Đơn vị tính: %

 

Chồng

Vợ

  Cả hai

Con

Người khác

Tổng

Nam

51,5

11,2

35,4

1,3

0,6

100

Nữ

54,0

10,8

29,0

2,3

3,9

100

 (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả năm 2016)

Cả hai giới đều nhận định rằng, người chồng - chủ hộ vẫn là người có thu nhập cao nhất so với các thành viên trong gia đình (chiếm 51,5% và 54,0%). Bởi nguồn thu nhập chính trong các hộ gia đình ngư dân ở đây phần lớn phụ thuộc kết quả lao của người đàn ông trong hoạt động khai thác, đánh bắt thủy hải sản, và một số nghề phụ với sự tham gia của phụ nữ như: chế biến, nuôi trồng và buôn bán hải sản.

 Vai trò then chốt của nam chủ hộ ngư dân ven biển không chỉ thể hiện ở thu nhập và tạo việc làm mà còn biểu hiện ở việc ra quyết định đối với những lĩnh vực quan trọng của kinh tế gia đình, đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức lao động sản xuất.

Bảng 2: Người ra các quyết định trong tổ chức lao động sản xuất

Đơn vị tính: %

 

Chồng

Vợ

Cả hai

Con

Người khác

Tổng

Mua sắm các phương tiện sản xuất (tàu, bè, ngư cụ)

71,4

11,5

15, 2

0,2

1,7

100

Vay vốn

59,2

7,2

26,5

2,2

4,9

100

Phương hướng và cách thức tổ chức sản xuất

69,4

9,6

19,3

0,5

1,2

100

(Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả năm 2016)

          Số liệu trên cho thấy 71,4% người chồng ra quyết định mua sắm các phương tiện sản xuất, 59,2% vay vốn, 69,4% phương hướng và cách thức tổ chức sản xuất. Kết quả này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết chức năng giới do Emile Durkheim (1857-1917), nhà xã hội học người Pháp, một trong những đai diện tiêu biểu của lý thuyết này với quan điểm cho rằng: nam giới được gán cho chức năng chuyên môn (công cụ, nghề nghiệp) để tạo ra của cải vật chất còn phụ nữ có chức năng biểu đạt (văn hóa, tình cảm) (Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Mỹ Lộc, 2000). Như vậy, người chồng, với vị thế chủ hộ đóng vai trò quyết định trong tổ chức sản xuất hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu.

Tuy nhiên hiện nay, trong điều kiện sống mới, những người vợ - người phụ nữ ở xã Nghi Sơn góp một vai trò không nhỏ trong việc xây dựng đời sống kinh tế của hộ gia đình. Kết quả nghiên cứu tại xã Nghi Sơn cho thấy: có 50 trong tổng số 250 phụ nữ được điều tra tham gia trực tiếp vào nghề biển cùng chồng (chiếm 20%).

“Ngày trước chồng đi biển một mình, không có ai phụ thả lưới, kéo lưới cứ phải thuê người, trong khi tôi lại nhàn rỗi ở nhà, tôi thấy lo lắng cho chồng rất nhiều. Từ ngày được lên thuyền chia sẻ gánh nặng, cơ cực trong nghề biển, cùng chồng ra khơi vào lộng mang về những khoang cá đầy ắp tôi thấy hạnh phúc và vui vẻ vô cùng. Cuộc sống gia đình cũng khá giả hươn, con cái học hành đến nơi đến chốn” (PVS, nữ, 38 tuổi).

          Thời gian những ngày chồng đi biển, ở quê phụ nữ ở nhà thường làm thêm các công việc khác nhằm tăng thu nhập như: làm cá khô, làm mắm, thu mua và buôn bán cá hoặc đi làm lao động theo thời vụ tại các nhà máy ở khu kinh tế Nghi Sơn. Như vậy, rõ ràng người phụ nữ cũng góp phần tạo ra thu nhập, cùng chồng xây dựng và ổn định kinh tế gia đình. Chính từ thực tế này mà vị thế kinh tế của người phụ nữ trong các gia đình ngư dân nơi đây ngày càng được nâng cao.

Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất còn được thể hiện thông qua quyền ra quyết định và thực hiện các hoạt động kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Việc chọn loại mặt hàng kinh doanh là một khâu quan trọng quyết định quá trình sản xuất. Nếu như người chồng là người có vai trò quyết định trong những việc như mua sắm phương tiện sản xuất, vay vốn, phương hướng và cách thức sản xuất thì người vợ đóng vai trò quyết định trong việc quản lý lý thu chi và giá mua giá bán (xem bảng 3).

Bảng 3: Người ra các quyết định và thực hiện các khâu

trong hoạt động kinh doanh, buôn bán

Đơn vị tính: %

 

Chồng

Vợ

Cả hai

Con

Người khác

Tổng

Người ra quyết định

Loại mặt hàng kinh doanh

23,4

53,3

16,6

0,7

5,9

100

Nơi mua, bán hàng, giá mua, giá bán

15,6

50,0

33,3

0,0

1,1

100

Người thực hiện các khâu

 

 

Quản lý thu, chi, thanh toán

32,3

41,6

24,0

0,3

1,7

100

Vận chuyển, bốc dở hàng

57,3

13,6

22,5

5,3

1,2

100

Trực tiếp phục vụ hay bán hàng

21,0

50,0%

21,5

6,1

1,4

100

                              (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả năm 2016)

Số liệu bảng 3 cho thấy, công việc vận chuyển và bốc dỡ hàng hải sản chủ yếu là người đàn ông đảm nhiệm (57,3%) bởi đó là những công việc khá vất vả và nặng nhọc phù hợp với sức khỏe của người đàn ông. Trong khi đó, do thường xuyên đứng bán hàng (50,0%); có kinh nghiệm trong kinh doanh, hiểu rõ được thị hiếu của khách hàng, biết được thời gian và mặt hàng nào kinh doanh là có lợi nhất nên người phụ nữ là người quyết định mặt hàng kinh doanh (53,3); giá mua giá bán (50,0%) và cũng là người quản lý thu, chi, thanh toán (41,6%). Như vậy, quyền quyết định đối với các công việc kinh doanh, sản xuất giờ đây không chỉ dành riêng cho nam giới mà còn dành cho nữ giới. Rõ ràng, việc trực tiếp tham gia vào các lĩnh vực trên đã nâng vị trí của người phụ nữ ở xã Nghi Sơn ngang tầm với nam giới, giờ đây họ đã có vai trò quan trọng trong việc cùng chồng ra quyết định và thực hiện các chức năng kinh tế của gia đình.

4.2. Trong hoạt động tái sản xuất

          Tái sản xuất là những hoạt động tạo ra nòi giống và tái tạo sức lao động. Chúng bao gồm việc sinh con, nuôi dạy con, chăm sóc các thành viên trong gia đình và làm các công việc nội trợ, giặt giũ, lau chùi nhà cửa… Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở các hộ ngư dân xã Nghi Sơn việc chăm sóc, nuôi dạy con cái, mua sắm đồ dùng học tập, liên hệ với nhà trường thầy cô giáo, bố trí thời gian học tập vui chơi giải trí cũng như việc quản lý, nắm giữ tài chính chi tiêu sinh hoạt trong gia đình đều do người phụ nữ đảm nhiệm.

Bảng 4: Người thực hiện công việc nội trợ, chăm sóc sức khỏe và dạy học cho con

Đơn vị tính: %

 

Chồng

Vợ

Cả hai

Con

Người khác

Tổng

                      Chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình

Nam

5,5

43,1

38,4

1,3

11,7

100

Nữ

2,8

54,7

29,0

2,3

11,2

100

Dạy học cho con

 

Nam

15,9

31,4

35,5

4,4

12,7

100

Nữ

12,9

39,4

29,0

5,1

13,6

100

                                        Công việc nội trợ

Nam

7,3

59,5

18,5

7,6

7,0

100

Nữ

5,8

68,9

11,4

8,6

5,1

100

                       (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả năm 2016)

Số liệu bảng 4 cho thấy, cả hai giới đều cho rằng trong việc chăm sóc sức khỏe cho con thì người vợ đảm nhận chính, chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả hai nhận định từ phía nam giới và nữ giới nhận định, tương ứng với (43,1% và 54,7%). Tuy nhiên, đã có sự chia sẻ của người chồng trong việc dạy cho con học, tỷ lệ hai vợ chồng cùng tham gia dạy học cho con đều chiếm tỷ lệ cao (35,5% và 29,0%) Một ngư dân cho biết: “Đời chú lênh đênh trên biển khổ nhiều rồi, chỉ mong con cái học hành đến nơi đến chốn nên hai vợ chồng đều rất quan tâm” (PVS, nam, 43 tuổi).

Không chỉ giữ vai trò chính trong việc dạy dỗ và chăm sóc sức khỏe các thành viên người phụ nữ cũng thường là người thực hiện chính công việc nội trợ. Cả hai giới đều thừa nhận phụ nữ đảm nhận hầu hết các công việc nội trợ (59,5% và 68,9%). Người chồng ít tham gia vào công việc nội trợ (7,3% và 5,8%).

Điều này xuất phát một phần do điều kiện và hoàn cảnh sống của các gia đình ngư dân. Thứ nhất, đặc điểm nghề biển vốn vất vả khó nhọc, thời gian đi biển dài ngày nên người đàn ông thường vắng nhà và ít có điều kiện trực tiếp tham gia vào công việc gia đình và chăm sóc con cái. Thứ hai là sự thông cảm và chia sẻ của người vợ và những thành viên trong gia đình với sự vất vả nặng nhọc của người chồng sau mỗi chuyến đi biển dài ngày về cần có thời gian nghỉ ngơi, lấy sức cho các chuyến đi kế tiếp.

Như vậy, các công việc trong gia đình như: chăm sóc sức khỏe, dạy dỗ con cái, nội trợ… phần lớn do phụ nữ đảm nhận. Đây vốn là những công việc không được trả lương nhưng lại mất nhiều sức lực và thời gian của phụ nữ. Do đó, phụ nữ cũng ít có thời gian nghỉ ngơi và quan tâm đến bản thân. Thực tế cho thấy, một phần sự cống hiến của phụ nữ chưa được gia đình và xã hội đánh giá đúng mức, những cống hiến thầm lặng đó còn bị bỏ quên hoặc “chưa nhìn thấy”. Vì vậy, để thực hiện bình đẳng nam nữ không chỉ trong khu vực trả lương mà còn cả trong khu vực không trả lương cũng cần đổi mới cách nghĩ và quan niệm về loại hình công việc này.

4.3. Trong hoạt động cộng đồng

Công việc cộng đồng là những việc liên quan đến các hoạt động mang tính tập thể. Đó là sự tham gia của người dân vào các công việc như lễ tết, hội hè, ma chay, cưới xin. Cũng có thể đó là các công việc công ích, những buổi sinh hoạt của dòng họ hay thôn xóm. Từ xưa trong đời sống nhân dân Việt Nam, những “việc họ việc làng” chỉ do nam giới-người chồng đảm nhiệm. Tuy nhiên kết quả điều tra thu được như sau:

Bảng 5: Người tham gia các hoạt động xã hội của cộng đồng

Đơn vị tính: %

 

Chồng

Vợ

Cả hai

Con

Người khác

Tổng

Thăm viếng họ hàng

18,7

17,8

56,6

2,1

4,8

100

Ma chay, cưới hỏi

19,7

18,8

55,4

1,6

4,5

100

Thờ cúng tổ tiên

32,6

20,0

38,0

1,4

8,1

100

Tham gia công việc xã hội

29,3

25,2

35,4

2,8

7,3

100

                                          (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả 2016)

          Việc thờ cúng tổ tiên nam giới vẫn đóng vai trò chủ yếu (chiếm 32,6%), phần lớn đàn ông tham gia vào các tổ chức xã hội và hoạt động cộng đồng (chiếm 29,3%) như tập đoàn, tổ, đội sản xuất, hội nông dân. Là người quyết định các vấn đề lớn trong gia đình, việc tham gia vào các tổ chức trên giúp họ không chỉ hợp tác làm ăn mà còn nắm bắt kịp thời những thông tin, kỹ thuật và hiểu biết chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương. Nam ngư dân là những người tham gia trực tiếp các lớp tập huấn kỹ thuật đánh bắt, nuôi trồng hải sản, vay vốn tạo việc làm của chính quyền cơ sở.

Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, hiện nay những công việc cộng đồng không chỉ là công việc của nam giới, mà phụ nữ cũng trực tiếp tham gia, có tiếng nói nhiều hơn trong các công việc mang tính cộng đồng, (thăm viếng họ hàng: 18,7% và 17,8%; ma chay cưới hỏi: 19,7% và 18,8%; tham gia công việc xã hội: 29,3% và 25,2%). Điều này có thể giải nghĩa bởi do thời gian đi biển dài ngày nên người đàn ông thường vắng nhà và ít có điều kiện trực tiếp tham gia các công việc cộng đồng nên các công việc này đều phải ro phụ nữ trong gia đình đảm nhận. “Chú đi biển suốt, có khi cả tháng mới về, nên mọi việc trong nhà ngoài xóm khi chú đi vắng đều do cô đảm nhiệm thôi, còn khi chú về thì cả hai vợ chồng cùng tham gia” (PVS, nữ, 39 tuổi).

Như vậy, người phụ nữ trong các gia đình ngư dân ven biển ở xã Nghi Sơn không chỉ có vai trò quan trọng trong công việc gia đình và trong hoạt động sản xuất phát triển kinh tế, tăng nguồn thu nhập cho gia đình mà vai trò của họ này càng được nâng cao trong phạm vi dòng họ và ngoài xã hội. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở Nghi Sơn trong thời gian gần đây đã khẳng định và nâng cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Với các chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo, các chiến lược phát triển giáo dục và các chính sách phát triển cộng đồng của Đảng và nhà nước đã khiến cho phụ nữ nơi đây mạnh dạn và tự tin hơn tham gia vào phát triển kinh tế gia đình và phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

  1. Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự phân công lao động trong gia đình là hình thức tổ chức lao động trong xã hội đã có từ lâu đời nhưng dưới sự tác động của xã hội hiện đại nó đã có những biến đổi nhất định. Trong bối cảnh hiện nay ở các gia đình ngư dân  xã Nghi Sơn cả nam và nữ đều tham gia vào hoạt động phát triển sản xuất tạo thu nhập hộ gia đình, nếu như nam giới có vai trò chủ đạo ở khâu tổ chức sản xuất của kinh tế gia đình, là người tạo ra thu nhập chính, quyết định phương hướng và đầu tư mua sắm phương tiện sản xuất trong gia đình, thì phụ nữ lại ngày càng thể hiện vai trò của mình trong việc tham gia vào hoạt động sản xuất phát triển kinh tế hộ, giữ vai trò chủ đạo trong công việc gia đình, cộng đồng và xã hội. Việc trực tiếp tham gia vào các lĩnh vực trên đã nâng vị trí của người phụ nữ ở xã Nghi Sơn ngang tầm với nam giới, giờ đây họ đã có vai trò quan trọng trong việc cùng chồng ra quyết định và thực hiện các chức năng kinh tế của gia đình. Điều này thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong vấn đề bình đẳng giới.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

[1]. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2014, phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm 2015 của xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

[2]. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Mỹ Lộc (Đồng chủ biên), (2000), Xã hội học về giới và phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.23.

[3] Lê Thị Quý (2010), Giáo trình Xã hội học về giới, Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.43 -122.

[4]. Tương Lai (1997), Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội, Nxb Khoa học xã hội

[5].. Quý Lâm, Kim Phượng (2014), Vai trò địa vị của người phụ nữ Việt Nam-Những ghi nhận mang tính lịch sử về nữ giới và quyền nữ giới, Nxb Lao động Xã hội.

[6]. Nguyễn Thế Tràm, (2005), Các giải pháp giải quyết vấn đề lao động việc làm của ngư dân ven biển miền Trung, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Đà Nẵng, tr.17.

[7]. Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.234.

 

 

 

* Khoa Văn hóa Thông tin, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa

Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương
In tin    Gửi email    Phản hồi


Các tin khác:
 VAI TRÒ CỦA KIỂM HUẤN VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HÀNH THỰC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (22/02/19)
 Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh và vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch (11/12/18)
 GIẢI PHÁP NẦNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH, THỰC TẬP SINH VIÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (29/11/18)
 TÁC ĐỘNG CỦA DI CƯ LAO ĐỘNG ĐẾN GIA ĐÌNH Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY (29/11/18)
 TIN HỌC HÓA QUY TRÌNH QUẢN LÝ THI (NỘP ĐỀ, RA ĐỀ, TỔ CHỨC THI) TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA (29/11/18)
 YẾU TỐ TỘC NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG MÔ HÌNH THIẾT CHẾ VĂN HÓA TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI THANH HÓA (29/11/18)
 TỤC KẾT CHẠ CỦA LÀNG VĨNH YÊN (29/11/18)
 SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀN DÃ TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA TẠI TRƯỜNG VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA. (29/11/18)
 NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE NHÂN DÂN TẠI BỆNH VIỆN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP (10/10/18)
 GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI MƯỜNG TẠI THÔN CAO VÂN, XÃ NGỌC KHÊ, HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HÓA (10/10/18)
Hôm nay 871
Hôm qua 2717
Tuần này 14251
Tháng này 89477
Tất cả 3144591
Browser   (Today) Chi tiết >>
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
Email: khoavanhoathongtin.dvtdt@gmail.com

 

 
@2015 Bản quyền thuộc về Trường Đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
 
Cơ sở: Số 561 Quang Trung 3, P. Đông Vệ, TP. Thanh Hóa  Điện thoại: (0237) 3953 388 - (0237) 3857 421
Chịu trách nhiệm nội dung: TS. Lê Thanh Hà - Hiệu trưởng nhà trường
Email: dhvhttdlth@gmail.com - Website: http://wwww.dvtdt.edu.vn